Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Những câu thơ hay bằng tiếng Trung hàm chứa nhiều ý nghĩa giúp bạn cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc hay những khó khăn trong cuộc sống. Cùng theo dõi bài viết và tìm hiểu kỹ nhé!
Nhắc đến thơ ca thì không thể không kể đến đất nước Trung Quốc. Những câu thơ hay bằng tiếng Trung hàm chứa nhiều ý nghĩa giúp bạn cảm nhận được từng cung bậc cảm xúc hay những khó khăn trong cuộc sống. Cùng theo dõi bài viết và tìm hiểu kỹ nhé!
Đây là bài thơ 5 chữ mô tả cuộc sống của một gia đình nông dân thời xưa. Lời thơ giản dị, ít chạm khắc nhưng lại phơi bày được nỗi khổ nhân dân thời bấy giờ.
Tác giả: Vi Ứng Vật (韋應物 – Wéi Yìng Wù)
微雨众卉新, Wēi yǔ zhòng huì xīn, 一雷惊蛰始。 Yī léi jīngzhé shǐ. 田家几日闲? Tiánjiā jǐ rì xián? 耕种从此始。 Gēngzhòng cóngcǐ shǐ. 丁壮俱在野, Dīng zhuàng jù zàiyě, 场圃亦就理。 Chǎng pǔ yì jiù lǐ. 归来景常晏, Guīlái jǐng cháng yàn, 饮犊西涧水。 Yǐn dú xī jiàn shuǐ. 饥劬不自苦, Jī qú bù zì kǔ, 膏泽且为喜。 Gāo zé qiě wèi xǐ. 仓廪无宿储, Cānglǐn wú sù chǔ, 徭役犹未已。 Yáoyì yóu wèi yǐ. 方惭不耕者, Fāng cán bù gēng zhě, 禄食出闾里。 Lù shí chū lǘlǐ.
Vi vũ chúng huỷ tân, Nhất lôi kinh trập thuỷ. Điền gia kỷ nhật nhàn? Canh chủng tòng thử thuỷ. Đinh tráng câu tại dã, Trường phố diệc tựu lý. Qui lai cảnh thường yến, Ẩm độc tây giản thuỷ. Cơ cù bất tự khổ, Cao trạch thả vi hỉ. Thương lẫm vô túc trừ, Dao dịch do vị dĩ. Phương tàm bất canh giả, Lộc thực xuất lư lý.
Mưa nhỏ làm mọi loài cỏ nảy mầm mới, Một cơn sấm chớp bắt đầu hiện tượng kinh trập. Nhà nông được bao nhiêu ngày nhàn rỗi rồi? Nay bắt đầu cày đất và gieo hạt theo ngay hiện tượng bắt đầu này. Người lớn khỏe mạnh đều ra đồng, Ruộng vườn đều được sửa sang. Thường trở về nhà trễ khi nắng sắp tắt, Bê, nghé uống nước nơi suối phía tây. Không thấy khổ khi đói bụng hay mệt nhọc, Chịu mưa ướt cho đất được thấm nhuần là điều vui mừng. Trong vựa, đụn chẳng có thóc lúa gì cả, Làm để trả thuế cho quan và tô cho chủ đất còn chưa đủ. Thấy điều này mới thấy hổ thẹn cho kẻ không làm ruộng như ta, Bổng lộc và cái ăn đều do làng xã cung ứng.
Vừa mưa nhỏ cỏ mọc mầm ngay, Sấm chớp bắt đầu kinh trập đây. Ngày rỗi nhà nông đâu được mấy, Đúng thời cày cấy giống liền tay. Tráng trai khỏe mạnh ra đồng cả, Vườn ruộng chăm lo cứ miệt mài. Thường trở về nhà khi nắng tắt, Nghé bê uống nước suối bờ tây. Nhọc nhằn đói khát nào đâu quản, Mưa ướt, đất nhuần cảm thấy vui. Trong vựa đụn không còn thóc lúa, Thuế tô chẳng đủ, khó khăn hoài. Thẹn mình không mó việc điền tang, Bổng lộc, miếng cơm nợ xóm làng. (Nguồn: Thivien.net)
Bốn dòng đầu của bài thơ này miêu tả khung cảnh khốn khổ và đổ nát của Trường An vào mùa xuân trong sự hưng thịnh và suy tàn. Bốn dòng cuối của bài thơ viết về tình yêu của nhà thơ đối với thân nhân và quốc sự đầy nỗi buồn.
国破山河在, Guó pò shānhé zài, 城春草木深。 Chéng chūn cǎomù shēn. 感时花溅泪, Gǎn shí huā jiàn lèi, 恨别鸟惊心。 Hèn bié niǎo jīng xīn. 烽火连三月, Fēnghuǒ lián sān yuè, 家书抵万金。 Jiāshū dǐ wàn jīn. 白头搔更短, Báitóu sāo gèng duǎn, 浑欲不胜簪。 Hún yù bùshèng zān.
Quốc phá sơn hà tại, Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thắng trâm.
Nước phá tan, núi sông còn đó, Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng. Ba tháng khói lửa ròng không ngớt, Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn. Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun, Dường như hết thảy, e khôn búi tròn. (Trần Trọng Kim dịch)
Nước mất nhà tan còn sông núi, Xuân thành cây cỏ mọc thâm u. Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ, Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly. Khói lửa binh đao liền ba tháng, Thư nhà nhận được đáng vạn ngân. Tóc bạc như sương càng thưa thớt, E không đủ búi để cài trâm. (Trương Văn Tú (Lãng Nhai) dịch)
Bài thơ này miêu tả tâm trạng của nhà thơ khi nhìn lên trăng trong đình vào một đêm mùa thu. Các bài thơ sử dụng ẩn dụ, ẩn dụ và các thủ pháp khác để nói lên nỗi niềm nhớ nhà, câu thơ trong sáng, giản dị và sức quyến rũ vô hạn, luôn được truyền tụng rộng rãi.
床前明月光, Chuáng qián míng yuè guāng, 疑是地上霜。 Yí shì dì shàng shuāng. 举头望明月, Jǔ tóu wàng míng yuè, 低头思故乡。 Dī tóu sī gù xiāng.
Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.
Đầu giường ánh trăng rọi, Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, Cúi đầu nhớ cố hương. (Tương Như dịch)
Sơn Cư Thu Minh là bài thơ mô tả cảnh đẹp của làng núi và những phong tục tập quán bình dị của người dân miền núi vào buổi tối sau cơn mưa đầu thu trong trẻo, mô phỏng tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên, cảnh vật, làng quê và sự mãn nguyện khi sống ẩn nơi yên bình.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi)
空山新雨后, Kōngshān xīn yǔ hòu, 天气晚来秋。 Tiānqì wǎn lái qiū. 明月松间照, Míngyuè sōng jiān zhào, 清泉石上流。 Qīngquán shí shàngliú. 竹喧归浣女, Zhú xuān guī huàn nǚ, 莲动下渔舟。 Lián dòng xià yúzhōu. 随意春芳歇, Suíyì chūnfāng xiē, 王孙自可留。 Wángsūn zì kě liú.
Không sơn tân vũ hậu, Thiên khí vãn lai thu. Minh nguyệt tùng gian chiếu, Thanh tuyền thạch thượng lưu. Trúc huyên quy hoán nữ, Liên động há ngư chu. Tùy ý xuân phương yết, Vương tôn tự khả lưu.
Ngọn núi vắng sau cơn mưa Thời tiết ban đêm đã là thu rồi Ánh trăng sáng chiếu qua rừng cây tùng Suối nước xanh chảy trên đá Nghe có tiếng trúc xào xạc mấy cô đi giặt áo về Tiếng lá sen xao động có người hạ thuyền xuống Tùy ý, hương xuân đã hết Các vương tôn muốn ở lại thì tự nhiên.
Núi vắng cơn mưa tan Chiều thu bóng khuất tàn Lá tùng trăng sáng rọi Ghềnh đá suối xanh tràn. Trúc vang hò thiếu nữ Sen động tiếng thuyền nan Tùy ý hương xuân tận Vương tôn vẫn bàn hoàn. (Nguồn: Thanh Vân Thi Tập)
Những câu thơ tiếng Trung hay về cuộc sống
Thơ:空山新雨后,天气晚来秋.明月松间照,清泉石上流.竹喧归浣女,莲动下渔舟.随意春芳歇,王孙自可留.
Phiên âm:Kōngshān xīn yǔ hòu,Tiānqì wǎn lái qiū.Míngyuè sōng jiān zhào,Qīngquán shí shàngliú.Zhú xuān guī huàn nǚ,Lián dòng xià yúzhōu.Suíyì chūnfāng xiē,Wángsūn zì kě liú.
Dịch nghĩa:Núi vắng cơn mưa tanChiều thu bóng khuất tànLá tùng trăng sáng rọiGhềnh đá suối xanh tràn.Trúc vang hò thiếu nữSen động tiếng thuyền nanTùy ý hương xuân tậnVương tôn vẫn bàn hoàn.
Thơ:老农家贫在山住, 耕种山田三四亩.苗疏税多不得食, 输入官仓化为土.岁暮锄犁傍空室, 呼儿登山收橡实.西江贾客珠百斛, 船中养犬长食肉.
Phiên âm:Lǎo nóngjiā pín zài shān zhù, gēngzhòng shāntián sānsì mǔ.Miáo shū shuì duō bùdé shí, shūrù guān cāng huà wéi tǔ.Suìmù chú lí bàng kōng shì, hū er dēngshān shōu xiàng shí.Xījiāng jiǎ kè zhū bǎi hú, chuán zhōng yǎng quǎn zhǎng shíròu.
Dịch nghĩa:Ông lão nghèo nhà trong vùng núiCầy cấy ba bốn mẫu đất hoangThuế nhiều không lúa để ănGom về để mục kho quan dư thừaĐến cuối năm cày bừa dựa váchHạt dẻ rừng tìm cách thay cơmNhà buôn châu báu cả trămTrên thuyến chó có thịt ăn hàng ngày.
Bài thơ này viết về sự sung túc của mùa xuân và niềm vui hạnh phúc của người nông dân, bộc lộ một số đặc điểm của cuộc sống xã hội và nhân sinh quan của con người thời đầu nhà Đường, đồng thời thể hiện sự sâu sắc của tác giả đối với thiên nhiên.
Tác giả: Vương Duy (王维 – Wáng Wéi)
屋上春鸠鸣, Wūshàng chūn jiū míng, 村边杏花白。 Cūn biān xìng huā bái. 持斧伐远扬, Chí fǔ fá yuǎnyáng, 荷锄觇泉脉。 Hè chú chān quán mài. 归燕识故巢, Quī yàn shì gù cháo, 旧人看新历。 Jiù rén kàn xīn lì. 临觞忽不御, Lín shāng hū bù yù, 惆怅远行客。 Chóuchàng yuǎn xíng kè.
Ốc thượng xuân cưu minh, Thôn biên hạnh hoa bạch. Trì phủ phạt viễn dương, Hà sừ chiêm tuyền mạch. Quy yến thức cố sào, Cựu nhân khán tân lịch. Lâm thương hốt bất ngự, Trù trướng viễn hành khách.
Chim xuân cưu kêu trên mái nhà, Hoa hạnh trắng thông bên đang nở. Cầm rìu chặt cành vươn xa, Lấy cuốc khơi mạch suối. Chim én bay về nhận ra tổ cũ của mình, Người cũ xem lịch mới. Cầm chung rượu trên tay nhưng không uống, Xót thương người phương xa.
Xuân cưu kêu mái nhà, Hạnh trắng vườn đơm hoa. Rìu chặt cành xa vướng, Cuốc khai mạch suối ra. Én về hay tổ cũ, Lịch mới người xem qua. Rót rượu mà chưa uống, Nghĩ thương người chốn xa. (Nguồn: Tuyển tập thơ Đường – Quyển I, NXB Văn Nghệ, 2009)
Thu Phong Từ là một mùa thu buồn trong tình cảnh này khiến nhà thơ buồn bã, bơ vơ – Không muốn tách rời và nỗi nhớ mong trong lòng khiến nhà thơ tiếc nuối buổi đầu quen biết.
Tác giả: Lý Bạch (李白 – Lǐ Bái), thời Thịnh Đường.
秋风清, Qiūfēng qīng, 秋月明。 Qiūyuè míng. 落叶聚还散, Luòyè jù hái sàn, 寒鸦栖复惊。 Hán yā qī fù jīng. 相思相见知何日? Xiāngsī xiāng jiàn zhī hé rì? 此时此夜难为情。 Cǐ shí cǐ yè nánwéiqíng.
Thu phong thanh, Thu nguyệt minh. Lạc diệp tụ hoàn tán, Hàn nha thê phục kinh. Tương tư, tương kiến tri hà nhật? Thử thì thử dạ nan vi tình.
Gió thu thanh, Trăng thu sáng. Lá rụng lúc tụ lúc tán, Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình. Nhớ nhau không biết ngày nào gặp? Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.
Gió thu lành, Trăng thu thanh. Lá rơi tụ lại tán, Quạ lạnh chợt rùng mình. Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp ? Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình. (Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
Xem thêm: Top 11 diễn đàn tiếng Trung chất lượng nhất.