Nền kinh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa đang đứng trước nhiều thách thức mới khi các diễn đàn đa phương có sự tham gia của một số siêu cường kinh tế (như WTO, Liên hợp quốc, APEC, G20, G7, v.v.) bộc lộ không ít bất đồng và gặp khó khăn trong việc tìm tiếng nói chung; vai trò của các thể chế đa phương và luật lệ, quy định thương mại quốc tế phổ cập (đặc biệt là WTO) có phần suy giảm trong khi xuất hiện các sáng kiến, định chế kinh tế - tài chính mới (như Sáng kiến Vành đai và Con đường, AIIB, v.v.). Bản thân WTO vẫn chưa xử lý được những vấn đề quan trọng liên quan đến thương mại như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, hay những mất cân đối thương mại toàn cầu. Liên kết kinh tế khu vực, tiểu vùng và song phương có xu hướng được đẩy mạnh hơn so với liên kết kinh tế toàn cầu và liên khu vực.
Nền kinh tế thế giới và tiến trình toàn cầu hóa đang đứng trước nhiều thách thức mới khi các diễn đàn đa phương có sự tham gia của một số siêu cường kinh tế (như WTO, Liên hợp quốc, APEC, G20, G7, v.v.) bộc lộ không ít bất đồng và gặp khó khăn trong việc tìm tiếng nói chung; vai trò của các thể chế đa phương và luật lệ, quy định thương mại quốc tế phổ cập (đặc biệt là WTO) có phần suy giảm trong khi xuất hiện các sáng kiến, định chế kinh tế - tài chính mới (như Sáng kiến Vành đai và Con đường, AIIB, v.v.). Bản thân WTO vẫn chưa xử lý được những vấn đề quan trọng liên quan đến thương mại như an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, hay những mất cân đối thương mại toàn cầu. Liên kết kinh tế khu vực, tiểu vùng và song phương có xu hướng được đẩy mạnh hơn so với liên kết kinh tế toàn cầu và liên khu vực.
- Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Lâm nghiệp
1. Mục tiêu của chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo cung cấp cho NCS những kiến thức chuyên sâu và nâng cao về kinh tế và kinh tế nông nghiệp và một số lĩnh vực có liên quan; khả năng độc lập nghiên cứu, phát hiện, dự báo và sáng tạo giải quyết những vấn đề mới trong thực tiễn của lĩnh vực kinh tế nông nghiệp; khả năng tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
Có kiến thức tiên tiến, chuyên sâu về kinh tế và kinh tế nông nghiệp, làm chủ được các giá trị cốt lõi trong học thuật, làm chủ được các nguyên lý, học thuyết của kinh tế nông nghiệp; có tư duy độc lập, sáng tạo để giải quyết các vấn đề chuyên sâu trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp; có kiến thức tổng hợp về tổ chức quản lý các tổ chức kinh tế xã hội.
Có khả năng tổng hợp, phân tích thông tin, phát hiện các vấn đề và đưa ra được các giải pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Có khả năng sử dụng các phương pháp phân tích định lượng, định tính và dự báo hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Có khả năng thiết lập, tổ chức mạng lưới hợp tác trong hoạt động chuyên môn; có năng lực tổng hợp trí tuệ tập thể, dẫn dắt chuyên môn để xử lý các vấn đề trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn;
Có khả năng sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp và trao đổi học thuật thuộc lĩnh vực chuyên ngành; có khả năng truyền bá, phổ biến tri thức, có thể viết được các báo cáo khoa học chuyên ngành.
* Về thái độ, năng lực tự chủ và tự chịu trách nhiệm:
Tự tin, chủ động, sáng tạo, trung thực trong nghiên cứu và công tác; có khả năng thích ứng tốt với các môi trường làm việc;
Có ý thức trách nhiệm trong các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường trong cộng đồng; tôn trọng pháp luật, lối sống tích cực và tinh thần hướng về cộng đồng.
Có tinh thần kỷ luật cao và tự chịu trách nhiệm của mình trong công tác quản lý và trong nghiên cứu khoa học.
2. Chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN có 10 chuẩn đầu ra và được mô tả trên biểu 01.
Biểu 01: Chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN
Nắm vững kiến thức chuyên sâu và nâng cao về kinh tế và kinh tế nông nghiệp phục vụ công tác quản lý nhà nước, xây dựng, thực thi, phân tích và hoàn thiện chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Nắm vững các kiến thức nâng cao về kinh tế và quản lý phục vụ cho việc xây dựng, thẩm định, phản biện, tổ chức thực thi, đánh giá, phân tích và đề xuất hoàn thiện các chương trình, dự án, chiến lược, kế hoạch trong nông nghiệp, nông thôn.
Nắm vững các các kiến thức nâng cao về tổ chức quản lý để quản lý vận hành các tổ chức kinh tế xã hội và nghề nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Nắm vững các kiến thức nâng cao và các phương pháp, công cụ tiên tiến hiện đại để tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế và kinh tế nông nghiệp.
Phát hiện, phân tích các vấn đề và đưa ra được các giải pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
Sử dụng thành thạo các phương pháp phân tích định lượng, định tính và dự báo hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và công tác quản lý trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
Tổ chức các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Sử dụng được ngoại ngữ trong giao tiếp và trao đổi học thuật trong lĩnh vực chuyên ngành; đạt trình độ tối thiểu tiếng Anh bậc 4; có khả năng viết và thuyết trình các báo cáo khoa học chuyên ngành.
Chuẩn đầu ra về năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Năng lực độc lập, sáng tạo trong nghiên cứu, giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp
Trung thực và tự chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và công tác của bản thân
3- Chuẩn đầu vào của chương trình đào tạo tiến sĩ ngành KTNN
Người học được coi là đạt chuẩn đầu vào về tiếp thu chương trình đào tạo NCS ngành KTNN khi hội đủ 3 điều kiện về: Chuyên môn và bậc học được đào tạo; Năng lực ngoại ngữ và Kinh nghiệm và năng lực nghiên cứu, cụ thể như sau:
3.1. Chuẩn đầu vào về chuyên môn và bậc học đã được đào tạo:
Người học phải đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
- Đã tốt nghiệp bậc thạc sĩ ngành đúng hoặc ngành phù hợp
- Đã tốt nghiệp đại học ngành đúng hoặc ngành phù hợp đạt loại giỏi trở lên
Đối với người đã có bằng tốt nghiệp thạc sĩ thuộc ngành/chuyên ngành phù hợp, Nhà trường sẽ căn cứ vào kết quả học tập ở bậc thạc sĩ của từng ứng viên để xác định những môn học bổ sung cho từng trường hợp cụ thể trên cơ sở đảm bảo mỗi ứng viên phải được học những môn học cốt lõi tối thiểu trong chương trình đào tạo thạc sĩ ngành Kinh tế nông nghiệp hiện hành để đảm bảo chuẩn đầu vào.
Các môn học cốt lõi tối thiểu của ngành KTNN trình độ thạc sĩ bao gồm:
(1) Kinh tế vi mô nâng cao: 3 TC
(2) Kinh tế vĩ mô nâng cao: 3 TC
(3) Kinh tế lượng nâng cao: 3 TC
(4) Chính sách nông nghiệp và nông thôn: 3 TC
(5) Kinh tế nông nghiệp nâng cao: 3 TC.
3.2. Chuẩn đầu vào về ngoại ngữ
Người học được coi là đạt chuẩn đầu vào về ngoại ngữ khi đáp ứng được một trong các điều kiện sau đây:
- Có Bằng tốt nghiệp trình độ đại học trở lên do một cơ sở đào tạo nước ngoài, phân hiệu của cơ sở đào tạo nước ngoài ở Việt Nam hoặc cơ sở đào tạo của Việt Nam cấp cho người học toàn thời gian bằng tiếng nước ngoài;
- Có Bằng tốt nghiệp trình độ đại học ngành ngôn ngữ tiếng nước ngoài do các cơ sở đào tạo của Việt Nam cấp;
- Có chứng chỉ ngoại ngữ trình độ bậc 4 (theo khung năng ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam) do Bộ Giáo dục Giáo dục Đào tạo công bố, còn hiệu lực tính đến ngày dự tuyển
3.3. Chuẩn đầu vào về mặt kinh nghiệm và năng lực nghiên cứu
Người học được coi là có đủ năng lực và kinh nghiệm nghiên cứu nếu thoả mãn một trong số các điều kiện sau:
- Đã thực hiện luận văn Thạc sĩ của chương trình đào tạo thạc sĩ khối ngành kinh tế theo định hướng nghiên cứu,
- Đã công bố ít nhất 1 bài báo khoa học về kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực KTNN và lĩnh vực có liên quan trên Tạp chí khoa học, hoặc một Báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học có qua phản biện và được đăng trong kỷ yếu Hội thảo.
- Có thời gian công tác tối thiểu là 2 năm (24 tháng) với vai trò là giảng viên, nghiên cứu viên của các cơ sở đào tạo, tổ chức khoa học và công nghệ.
4- Khối lượng và thời gian học tập của chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN
4.1. Khối lượng học tập của chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN
Khối lượng học tập của chương trình đào tạo NCS ngành KTNN được quy định cho trường hợp người học đã có bằng Thạc sĩ và trường hợp người học chưa có bằng Thạc sĩ, cụ thể như sau:
- Khối lượng học tập cho NCS đã có bằng Thạc sĩ là 90 Tín chỉ
- Khối lượng học tập cho NCS chưa có bằng Thạc sĩ là 120 tín chỉ.
Khối lượng học tập tiêu chuẩn dành cho người học đã có bằng thạc sĩ của chương trình đào tạo tiến sĩ ngành KTNN là 90 tín chỉ, bao gồm các thành phần như trong biểu 02.
Biểu 02. Khối lượng học tập của chương trình đào tạo tiến sĩ ngành KTNN
Kiến thức cơ sở và chuyên ngành
Tiểu luận tổng quan và chuyên đề nghiên cứu sinh
Chuyên đề nghiên cứu sinh (3 chuyên đề)
Chương trình đào tạo khối lượng 120 tín chỉ là dành cho người học chưa có bằng thạc sĩ (tốt nghiệp đại học loại giỏi thuộc ngành phù hợp). Trong trường hợp này, ngoài việc phải thực hiện đủ 90 tín chỉ theo biểu 02, người học còn phải học thêm 30 tín chỉ các môn học thuộc chương trình đào tạo thạc sĩ ngành Kinh tế nông nghiệp hiện hành.
Các thành phần của chương trình đào tạo và các học phần của chương trình này được quy định chi tiết trên biểu 04 (mục 5.1).
4.2. Thời gian đào tạo của chương trình
- Thời gian đào tạo là 03 năm đối với người học đã có bằng Thạc sĩ
- Thời gian đào tạo là 04 năm đối với người học chưa có bằng Thạc sĩ
Các trường hợp NCS hoàn thành sớm hoặc kéo dài thời gian đào tạo được thực hiện theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Kết cấu chương trình đào tạo tiến sĩ ngành KTNN
Chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN bao gồm các bộ phận:
- Danh mục các học phần trình độ tiến sĩ;
- Các chuyên đề tiến sĩ và tiểu luận tổng quan
- Nghiên cứu khoa học và luận án tiến sĩ.
5.1. Các học phần trình độ TS, các chuyên đề tiến sĩ và tiểu luận tổng quan
5.1.1. Danh mục các học phần trình độ tiến sĩ
a- Danh mục các học phần trình độ tiến sĩ cho NCS đã có bằng thạc sĩ
Danh mục các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN dành cho NCS đã có bằng thạc sĩ có khối lượng 12 tín chỉ và được trình bày trong biểu 03.
Biểu 03. Danh mục các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN dành cho người học đã có bằng Thạc sĩ
Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh tế và viết luận án tiến sĩ
II. Khối kiến thức chuyên ngành
Kinh tế nguồn lực trong nông nghiệp
Phân tích tác động kinh tế xã hội trong nông nghiệp
b- Danh mục các học phần dành cho NCS chưa có bằng thạc sĩ
Danh mục các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN dành cho NCS chưa có bằng thạc sĩ gồm 42 tín chỉ, trong đó có 12 tín chỉ các học phần thuộc trình độ tiến sĩ và 30 tín chỉ các học phần thuộc trình độ thạc sĩ ngành KTNN.
Danh mục các học phần của chương trình này được nêu trên biểu 04.
Biểu 04. Danh mục các học phần trong chương trình đào tạo tiến sĩ KTNN dành cho người học chưa có bằng Thạc sĩ
Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh tế và viết luận án tiến sĩ
Tin học ứng dụng trong quản lý kinh tế
II. Khối kiến thức chuyên ngành
Kinh tế nguồn lực trong nông nghiệp
Chính sách nông nghiệp và nông thôn
Kinh tế tài nguyên và môi trường
Quản trị kinh doanh nông lâm nghiệp
Phân tích tác động kinh tế xã hội trong nông nghiệp
6. Kế hoạch đào tạo chương trình tiến sĩ KTNN
Kế hoạch dự kiến bố trí thời gian giảng dạy các học phân và các nội dung của chương trình đào tạo tiêu chuẩn (3 năm) được nêu trên biểu 06.
Biểu 06: Kế hoạch dự kiến bố trí thời gian thực hiện chương trình đào tạo
Các học phần chương trình tiến sĩ
Chuyên đề tiến sĩ (3 chuyên đề)
Đối với các học phần bổ sung kiến thức dành riêng cho những NCS chưa có bằng thạc sĩ (gồm 30 tín chỉ) được bố trí thực hiện trong 3 năm đầu của chương trình đào tạo 4 năm dành cho NCS này. NCS có thể đăng ký và học tập các học phần này cùng với các lớp cao học phù hợp.
(*) TS, Trường Đại học Quy Nhơn LÊ VĂN HÂN(**)
(**) ThS, Trường Đại học Quy Nhơn
Tóm tắt: Cải cách thuế nông nghiệp là một trong những nội dung trọng tâm nhằm thực hiện chính sách tam nông của Trung Quốc thời kỳ cải cách mở cửa. Cải cách chính sách thuế nông nghiệp là để giảm dần mức thuế, phí ở nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nông thôn Trung Quốc. Bài viết khái quát quá trình xây dựng chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc giai đoạn cải cách mở cửa và một số gợi mở đối với Việt Nam. Từ khóa: thuế nông nghiệp; Trung Quốc; Việt Nam
Trung Quốc là quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp truyền thống đóng vai trò chủ đạo. Trước năm 1978, kinh tế nông nghiệp Trung Quốc trong tình trạng lạc hậu, chế độ thuế nông nghiệp tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Sau năm 1978, Trung Quốc thực hiện nhiều biện pháp cải cách chính sách thuế nông nghiệp, giảm các khoản thuế, phí cho nông dân. Nội dung cải cách chính sách thuế nông nghiệp được phản ánh trong những văn kiện quan trọng của Trung Quốc về phát triển kinh tế nông nghiệp. Có thể nói, cải cách thuế nông nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp, làm thay đổi cuộc sống của nông dân và bộ mặt của nông thôn Trung Quốc. 1. Quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách ruộng đất, Trung Quốc đã ban hành các văn bản chính sách về thuế nông nghiệp, nhằm khuyến khích nông dân sản xuất. Ngày 03/6/1958, Trung Quốc ban hành Pháp lệnh thuế nông nghiệp, quy định về đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế và chính sách miễn giảm thuế đối với những đơn vị, cá nhân có thu nhập từ sản xuất nông nghiệp(1). Pháp lệnh này là cơ sở để Trung Quốc hoàn thiện chính sách thuế nông nghiệp. Từ năm 1958 – 2004, mặc dù có nhiều quy định bổ sung về thuế nông nghiệp, nhưng những nội dung cơ bản của Pháp lệnh năm 1958 vẫn được kế thừa. Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc khóa XI, ngày 28/9/1979 thông qua Quyết định về một số vấn đề liên quan đến phát triển nông nghiệp, trong đó, vấn đề thuế nông nghiệp được nhấn mạnh: “Đối với các xã, đội và xí nghiệp sản xuất nông nghiệp, căn cứ vào tình hình thực tế để thực hiện chính sách giảm hoặc miễn thuế”(2). Năm 1980, Trung Quốc ban hành chính sách quy định rõ phạm vi thu chi của ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương, thực hiện thể chế quản lý tài chính: “phân chia thu chi, phân cấp bao cấp”(3), gọi tắt là chế độ “phân nồi ăn cơm”. Chính phủ quyết định giảm hoặc miễn một số loại thuế nông nghiệp, ấn định mức thuế nông nghiệp tối thiểu cho các địa phương có sản lượng lương thực thấp. Nhà nước miễn giảm thuế đất nông nghiệp (tương đương 235.000 tấn lương thực quy thóc)(4) cho các địa phương khó khăn. Ngày 05/9/1980, Trung Quốc ban hành quy định ngưỡng thuế nông nghiệp, cho phép các địa phương được quyền quy định ngưỡng thu thuế nông nghiệp. Đối với các địa phương khó khăn, mức thu nhập của nông dân thấp và thiếu lương thực, Nhà nước cho phép địa phương quy định mức thuế đất nông nghiệp ở dưới ngưỡng quy định. Bắt đầu từ năm 1980, Nhà nước thực hiện chính sách miễn thuế trong vòng 03 năm đối với một số đối tượng cụ thể(5). Như vậy, việc đề ra chính sách về ngưỡng thuế, miễn thuế đã góp phần tạo nguồn thu cho địa phương, đồng thời kích thích sản xuất nông nghiệp ở những vùng sản xuất còn nhiều khó khăn. Ngày 02/7/1993, tại kỳ họp thứ II của Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc (Khóa VIII), Luật Nông nghiệp chính thức được thông qua, quy định cụ thể việc thu thuế, miễn thuế đối với nông dân, tạo cơ chế pháp lý để ổn định hệ thống quản lý ruộng đất ở nông thôn(6). Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự hoàn thiện của chính sách thuế nông nghiệp; là cơ sở quan trọng để Nhà nước tiến hành thực thi chính sách phát triển nông nghiệp và chính sách thuế phù hợp với thực tiễn phát triển. Trong Kế hoạch 05 năm lần thứ 10 về phát triển kinh tế – xã hội của Trung Quốc (2000 – 2005), một trong những nhiệm vụ trọng tâm là cải cách thuế và phí ở khu vực nông thôn: “Các biện pháp, chính sách cải cách thuế, phí ở nông thôn là giải pháp cơ bản nhằm giảm bớt gánh nặng cho nông dân. Các địa phương phải tích cực đẩy mạnh công tác này theo sự triển khai thống nhất của Quốc vụ viện”(7). Văn kiện số 1 ban hành ngày 31/12/2005 của Trung Quốc về việc Thúc đẩy xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh: “Tiếp tục mở rộng phạm vi miễn thuế nông nghiệp và tăng mức giảm thuế nông nghiệp”(8). Theo quy định, nông dân phải nộp các loại thuế nông nghiệp, thuế đặc sản nông nghiệp, thuế sát sinh. Nông dân phải nộp cho hương trấn, thôn các khoản phí để dùng cho việc công ích, đóng góp vào quỹ huy động vốn, thực hiện nghĩa vụ lao động công ích hằng năm bằng tiền… Thuế nông nghiệp và thuế sản phẩm nông nghiệp đều dựa trên diện tích đất trồng trọt để thu. Địa phương được phép trích lại khoản thuế khoán ruộng đất để dùng cho công việc chung của thôn, xã. Khoản trích lại này được gọi là phí. Phí được trích từ thuế dùng để bù đắp lại sự thiếu hụt về tài chính của thôn, xã. Nông dân chịu gánh nặng về thuế và phí đã dẫn đến nhiều hệ lụy, kìm hãm sự phát triển của kinh tế nông hộ, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh giá cả của các sản phẩm nông nghiệp. Thuế và phí mà nông dân ở nông thôn chi trả chiếm khoảng 07% – 08% tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp. Đây là nguồn thu chủ yếu của các địa phương, nên đã tạo gánh nặng cho nông dân trong điều kiện nền kinh tế nông nghiệp đang trong quá trình phát triển bước đầu. Cải cách thuế và phí ở nông thôn Trung Quốc được đẩy mạnh từ đầu những năm 2000 và được tiến hành thông qua hai bước. Bước thứ nhất là “giảm nhẹ, quy phạm, ổn định”(9) nhằm chấn chỉnh lại việc thu thuế và phí ở nông thôn. Nhà nước đề ra quy phạm về thu thuế nông nghiệp và các loại phụ thuế mà nông dân phải nộp. Phương châm thực hiện “ba cái loại bỏ, một cái từng bước loại bỏ, hai cái được điều chỉnh, một cái được cải cách”(10). Mục tiêu trong vòng 03 năm giảm, tiến tới loại bỏ phí. Nhà nước điều chỉnh lại thuế nông nghiệp, thuế đặc sản nông nghiệp và phương pháp thu; cải cách lại thuế cho thôn, xã, lấy 20% hạn mức thuế nông nghiệp làm giới hạn để phụ thu thuế nông nghiệp. Năm 2003, Trung Quốc cơ bản hoàn thành bước đầu cải cách thuế và phí ở nông thôn. Bước tiếp theo là tiến hành loại bỏ thuế và phí nông nghiệp, thiết lập chế độ tài chính công ở toàn bộ khu vực thành thị và nông thôn, hình thành thể chế quản lý hành chính với cơ chế vận hành gọn nhẹ và hiệu quả: “tăng cường sự bảo hộ, hỗ trợ của Nhà nước đối với nông nghiệp; cải cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa về thuế và phí ở nông thôn, giảm gánh nặng cho nông dân một cách hiệu quả”(11). Nhà nước từng bước hạ thấp mức thuế nông nghiệp, tạo điều kiện để thống nhất chế độ thuế ở thành thị và nông thôn. Văn kiện số 1 năm 2004 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh: “Điều quan trọng hiện nay là giảm thuế cho nông dân càng sớm càng tốt, đẩy nhanh cải cách theo yêu cầu của chính quyền Trung ương, tiếp tục tăng cường vai trò giám sát và quản lý của nông dân”(12). Từ ngày 01/01/2006, theo quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc, thuế nông nghiệp được chính thức bãi bỏ trên toàn lãnh thổ Trung Quốc(13). Đây là một quyết định mang tính lịch sử đối với hàng triệu nông dân Trung Quốc, chấm dứt chế độ thuế nông nghiệp đã tồn tại ở Trung Quốc suốt hằng nghìn năm lịch sử: “Việc bãi bỏ thuế nông nghiệp đã mang lại lợi ích vật chất rõ ràng cho nông dân Trung Quốc, phát huy hơn nữa tinh thần nhiệt tình của nông dân và một lần nữa giải phóng năng lực sản xuất nông thôn. Điều này có ý nghĩa quan trọng mang tính thời đại đối với sự phát triển nông nghiệp của Trung Quốc”(14). Quyết định bãi bỏ thuế nông nghiệp còn góp phần rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa cư dân nông thôn với thành thị, hướng đến xây dựng nền kinh tế và xã hội phát triển hài hòa và bình đẳng, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc. Đây được xem là bước đầu trong tiến trình cải cách chế độ thuế nông nghiệp của Trung Quốc. Mục tiêu tiếp theo của chính sách cải cách thuế nông nghiệp là hướng đến thống nhất chế độ thuế giữa khu vực thành thị và nông thôn. Để thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh hệ thống thuế liên quan đến nông nghiệp, tiếp tục ban hành chính sách ưu đãi thuế nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, bãi bỏ hoặc giảm nhẹ các loại thuế, phí liên quan đến sản phẩm nông nghiệp giúp sản phẩm nông nghiệp lưu thông dễ dàng hơn, hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp phát triển loại hình sản nghiệp hóa nông nghiệp, nâng cao trình độ tổ chức sản xuất cho nông dân… Như vậy, chính sách cải cách thuế nông nghiệp ở Trung Quốc nhằm mục tiêu hình thành một chế độ thuế thống nhất trong toàn quốc, tạo môi trường thuận lợi để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. 2. Nội dung chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc Đối tượng nộp thuế cho Nhà nước là các đơn vị, cá nhân tham gia sản xuất và có thu nhập từ nông nghiệp: hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; xã viên có đất đai để sản xuất nông nghiệp; nông dân cá thể có thu nhập từ nông trại; nông trường quốc doanh và nông trại hợp tác công tư; doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị quân đội, trường học, chùa chiền…(15). Nhà nước quy định rất cụ thể các loại ruộng đất phải đóng thuế. Thuế nông nghiệp được thu căn cứ theo giá trị sản xuất sản phẩm nông nghiệp của nông dân, bao gồm: thu nhập từ cây lương thực và cây khoai tây; thu nhập từ bông, cây gai dầu, thuốc lá, cây có dầu, cây đường; thu nhập từ trồng trọt hoa màu…: “Các khoản thu nhập từ nông nghiệp được nêu tại Điều 1 Khoản 1, 2 và 3, được tính tương đương với sản lượng ngũ cốc chính của địa phương và được tính bằng đơn vị cân; tỷ lệ quy đổi do Ủy ban nhân dân tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc Trung ương quy định”(16). Như vậy, theo quy định thì các loại ruộng đất sản xuất nông nghiệp và sản lượng thu được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp phải đóng thuế nông nghiệp cho Nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách miễn, giảm thuế nông nghiệp đối với các trường hợp: đất khai hoang dùng vào sản xuất nông nghiệp (tùy vào từng loại cây trồng), đất khai hoang được Nhà nước đầu tư ngân sách để tiến hành khẩn hoang. Thời gian được miễn, giảm thuế đối với diện tích đất khai hoang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp là từ 03 – 07 năm. Thời điểm miễn giảm thuế được tính từ khi diện tích đất đó cho thu nhập. Nhà nước cũng quy định cụ thể các loại đất nông nghiệp khai hoang được miễn giảm thuế như: đất trồng dâu, chè, cây ăn quả, đất đồi núi(17). Chính sách miễn, giảm thuế nông nghiệp cũng được thực hiện đối với nông dân trong trường hợp mùa màng bị thiệt hại do lũ lụt, bão, hạn hán, mưa đá hoặc các thiên tai khác. Mức độ miễn giảm thuế, miễn thuế do Uỷ ban nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định dựa trên cơ sở thực tiễn(18); miễn, giảm thuế cho các hộ nông dân sản xuất ở vùng cao, miền núi, biên giới và hải đảo; nông dân là dân tộc thiểu số nơi có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; nông dân là người tàn tật, già yếu không nơi nương tựa; miễn, giảm thuế cho hộ gia đình có công với sự nghiệp cách mạng của dân tộc: gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với sự nghiệp cách mạng(19). Mức miễn, giảm được chính quyền nhân dân ở các quận, huyện, thành phố xem xét và quyết định. Đây là chính sách thể hiện tính nhân văn, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần giải quyết khó khăn, giúp các gia đình thuộc diện chính sách có điều kiện tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế. Nhìn chung, Trung Quốc luôn có những chính sách linh hoạt, cụ thể đối với việc miễn, giảm thuế ruộng đất khi nông dân gặp khó khăn trong sản xuất do thiên tai địch họa. Nhằm hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo mô hình hiện đại, Trung Quốc thực hiện một số chính sách ưu đãi về thuế: miễn thuế giá trị gia tăng đối với hàng nông sản cho các hộ nông dân tự sản xuất. Từ năm 2018, giảm thuế giá trị gia tăng từ 11% xuống 10% đối với nông dân khi bán nông sản cho doanh nghiệp chế biến(20); miễn thuế giá trị gia tăng đối với nông dân chuyển nhượng ruộng đất khoán cho nhà máy, xí nghiệp cần sử dụng đất với mục đích mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp. Đối với doanh nghiệp có thu nhập thông qua tổ chức sản xuất nông – lâm nghiệp thì Nhà nước giảm 1/2 thuế thu nhập cho doanh nghiệp. Miễn thuế đối với các hoạt động mua, bán sản phẩm nông nghiệp giữa Nhà nước và nông dân; giảm, hủy bỏ một số loại phí liên quan đến lĩnh vực tam nông(21). Có thể thấy, chính sách ưu đãi thuế đối với nông sản gắn liền với lợi ích cá nhân đã tạo động lực cho nông dân và các tổ chức kinh doanh nông nghiệp sản xuất. Chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, chính sách bãi bỏ thuế nông nghiệp và cải cách chế độ thu phí nông nghiệp được thực hiện trong thực tiễn đã đem lại hiệu quả to lớn, làm giảm gánh nặng thuế, phí và tăng nguồn thu cho nông dân. Như vậy, chính sách thuế nông nghiệp không những giải quyết được một số vấn đề về bất bình đẳng trong xã hội, mà còn giúp người nông dân có thêm nguồn vốn để tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, đưa kinh tế nông nghiệp phát triển theo con đường hiện đại hóa với tốc độ nhanh hơn. Bên cạnh những ưu điểm, chính sách thuế nông nghiệp Trung Quốc hiện vẫn tồn tại những hạn chế nhất định: chính sách ưu đãi thuế nông nghiệp chưa đồng bộ với chính sách thuế giá trị gia tăng, ảnh hưởng đến quyền lợi của người nông dân và người tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp; hình thức ưu đãi thuế còn mang tính đơn nhất, liên kết ưu đãi thuế chưa toàn diện (chủ yếu tập trung ưu đãi khâu bán nông sản ban đầu, ít hoặc chưa ưu đãi khâu tiêu thụ sản phẩm cuối cùng); phạm vi ưu đãi thuế nông nghiệp hẹp. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc là do quá trình tiến hành cải cách thuế, phí nông nghiệp mới được thực hiện một thời gian ngắn; thực tiễn phát triển kinh tế nông nghiệp diễn ra với tốc độ nhanh so với mức độ cải cách chính sách thuế; năng lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ ban hành và thực thi chính sách thuế nông nghiệp còn hạn chế. Những bất cập này vẫn đang từng bước được khắc phục để đưa kinh tế nông nghiệp Trung Quốc vươn lên thành ngành kinh tế hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập thế giới của kinh tế Trung Quốc. 3. Một số gợi mở đối với Việt Nam Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế và hệ thống chính sách thuế nông nghiệp của Việt Nam luôn hướng đến sự ưu đãi đối với nông dân. Sau năm 1986, Việt Nam có nhiều chính sách cụ thể và linh hoạt để tạo điều kiện cho nông dân giảm bớt gánh nặng thuế nông nghiệp. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2010, Việt Nam đã tiến hành đổi mới nhiều nội dung quan trọng trong chính sách thuế nông nghiệp(22). Nhà nước thực hiện các chính sách đồng bộ, nổi bật là chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức cho nông dân từ năm 2003 đến năm 2010. Đây được xem là chính sách thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy nhanh công cuộc xóa đói, giảm nghèo, hỗ trợ phát triển nông nghiệp và mang lại diện mạo phát triển mới cho nông thôn. Chính sách thuế nông nghiệp là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế nông nghiệp vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh của kinh tế nông nghiệp Việt Nam vẫn ở mức thấp. Thực tiễn đó yêu cầu Nhà nước phải có sự hỗ trợ mạnh mẽ để tạo động lực cho kinh tế nông nghiệp phát triển. Trước hết, cần thông qua chính sách ưu đãi về thuế nông nghiệp. Do đó, thông qua việc nghiên cứu chính sách thuế nông nghiệp của Trung Quốc từ năm 1978 đến nay, có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm cho quá trình đổi mới chính sách thuế nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn hiện nay như sau: Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chế độ miễn, giảm thuế nông nghiệp. Việt Nam cần thực thi chính sách thu thuế nông nghiệp với hệ thống quy định đã được ban hành, cải tiến theo xu hướng giảm dần thuế ruộng đất cho nông dân. Việc thực hiện chính sách miễn, giảm thuế nông nghiệp sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp: khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư vào nông nghiệp; phát triển hình thức kinh tế trang trại, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, chính sách miễn, giảm thuế nông nghiệp sẽ giúp người nông dân có điều kiện tái đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống. Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam vẫn cần tiếp tục thực hiện đổi mới chế độ thuế nông nghiệp theo hướng miễn, giảm, tiến tới loại bỏ hẳn các loại thuế không phù hợp. Thứ hai, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân có thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp hoặc thu nhập từ cổ tức đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Nghiên cứu, áp dụng các chính sách ưu đãi về vốn tín dụng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Biện pháp này sẽ khuyến khích sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện để nông dân tham gia sâu vào quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, hình thành và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất hiện đại có sự kết hợp giữa nông dân và doanh nghiệp. Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp sản xuất máy móc thiết bị, dây chuyền, các sản phẩm sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, phải có các quy định về miễn, giảm thuế cho các đơn vị sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Chính sách ưu đãi này sẽ kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp Việt Nam. Thứ tư, Nhà nước cần tăng cường chính sách ưu đãi về thuế xuất, nhập khẩu đối với các sản phẩm hoặc hàng hóa liên quan đến nông nghiệp. Hiện nay, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016 của Việt Nam có các quy định về miễn, giảm thuế đối với các loại hàng hóa: giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong nước chưa sản xuất được, các loại linh kiện và máy móc phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế nông nghiệp ở vùng có điều kiện sản xuất khó khăn. Việc Nhà nước tăng cường các chính sách ưu đãi về thuế xuất, nhập khẩu đối với các sản phẩm hoặc hàng hóa liên quan đến nông nghiệp là biện pháp quan trọng để nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, giúp kinh tế nông nghiệp rút ngắn trình độ phát triển với các nước có nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để kinh tế nông nghiệp tham gia vào quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế thuận lợi./.
(1 ), (15) (16) (17) (18) và (19) Điều lệ thuế nông nghiệp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua tại Kỳ họp lần thứ 96 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc ngày 03/6/1958, Nhân dân Nhật báo ngày 05/6/1958, tr.2, 2, 2, 2, 2 và 2 (2) Quyết định của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số vấn đề đẩy nhanh phát triển nông nghiệp (Hội nghị toàn thể lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI ngày 28/9/1979, Nhân dân Nhật báo ngày 06/10/1979, tr.1 (3) Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Cơ chế tài chính “phân chia thu chi, phân cấp bao cấp”, Bắc Kinh, tháng 2/1980 (4) Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Bính Càn nói về một số biện pháp quan trọng mà Bộ tài chính Trung Quốc thực hiện năm ngoái nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất công nông nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân, Nhân dân Nhật báo, ngày 31/8/1980, tr.2 (5) Quốc vụ viện phê duyệt báo cáo của Bộ Tài chính về biện pháp thực hiện ngưỡng thuế nông nghiệp: tiếp tục ổn định thuế nông nghiệp theo hướng tăng sản lượng nhưng không tăng thuế, mức thuế nông nghiệp được giảm phải được thực hiện trong thực tiễn đối với các xã đội khó khăn, không được khấu trừ hoặc chiếm dụng, Nhân dân Nhật báo ngày 06/9/1980, tr.4 (6) Luật Nông nghiệp nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thông qua tại kỳ họp lần thứ 2 Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu toàn quốc khóa VIII, ngày 02/7/1993, Nhân dân Nhật báo, ngày 04/7/1993, tr.2 (7) Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc – Quốc vụ viện: Một số ý kiến về việc làm tốt công tác nông nghiệp và nông thôn năm 2001, ngày 11/01/2001, Nhân dân Nhật báo, ngày 13/02/2001, tr.1 (8) Trương Nghị, Chính sách tốt – con đường hướng đến năm 2005 (giải thích chính sách: một số điều cần quan tâm trong Văn kiện số 1 của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc), Nhân dân Nhật báo, ngày 02/02/2005, tr.2 (9) Tiến sâu hơn nữa trong cải cách thuế và phí ở nông thôn, Nhân dân Nhật báo, ngày 07/7/2004, tr.1 (10) Cải cách sâu rộng và toàn diện nông thôn, thúc đẩy công tác thí điểm cải cách thuế và phí ở nông thôn, Nhân dân Nhật báo, ngày 18/5/2003, tr.4 (11) Lan Hồng Quang, Phiên họp toàn thể lần thứ 3 khóa 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc khai mạc tại Bắc Kinh: Bộ Chính trị chủ trì cuộc họp – Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào có bài phát biểu quan trọng, Nhân dân Nhật báo, ngày 15/10/2003, tr.1 (12) Giang Hạ, Cần cung cấp sự đảm bảo về mặt thể chế nhằm giảm gánh nặng và tăng thu nhập cho nông dân, (Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập của nông dân – giải thích tinh thần Văn kiện số 1 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2004) – phỏng vấn Cục trưởng Đường Nhân Kiện – Lãnh đạo Ban Kinh tế Tài chính Trung ương, Nhân dân Nhật báo, ngày 20/02/2004, tr.6 (13) Ngọc Vân, Trung Quốc sẽ xóa bỏ thuế nông nghiệp, https://baochinhphu.vn, ngày 08/03/2006 (14) Chính thức bãi bỏ thuế nông nghiệp, Nhân dân Nhật báo, ngày 27/10/2014, tr.11 (20) Quách Kha Vũ, Trương Ái Nho (2020), Phân tích chính sách thu thuế nông nghiệp, Tạp chí Thảo luận Tài thuế, số 3/2020, tr.13 (21) Chủ thể hình thức kinh doanh nông nghiệp mới được hưởng những ưu đãi thuế gì? Tạp chí Nông thôn mới, số 1/2019, tr.8 (22) Trần Thị Minh Châu, Chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 26/7/2011
(Tạp chí Khoa học chính trị Số 04_2024)
Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 14:36 22/05/2023
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế nông nghiệp nói riêng đang đứng trước nhiều thách thức cũng như cơ hội với sự phát triển kinh tế 4.0 và nền kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ Địa phương - Bộ Khoa học và Công nghệ, Chuyên trang Chuyển đổi số - Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Viện Phát triển Kinh tế Số Việt Nam và Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn - Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức hội thảo “Chính sách và thực trạng kinh tế nông nghiệp Việt Nam” lần thứ nhất năm 2023.
Sản xuất nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất quan trọng nhất đối với sự phát triển của Việt Nam. Về kinh tế, GDP nông nghiệp chiếm khoảng 13,96% tổng GDP năm 2019. Tuy nhiên, con số này phản ánh mức giảm đều từ 38,06% năm 1986, cho thấy sự chuyển đổi sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn 2001-2013, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp là 3,57%/năm, cao hơn và ít biến động hơn so với các nước châu Á khác. Từ một đất nước bị nạn đói đe dọa, Việt Nam hiện đứng thứ 2 ở Đông Nam Á và thứ 15 trên toàn cầu về xuất khẩu nông sản. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng vọt từ 4,2 tỷ USD năm 2004 lên 41,3 tỷ USD năm 2019, chiếm 15,68% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Các nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là gạo, cà phê, hạt tiêu, chè, hạt điều, cao su, sắn, thủy sản và đồ nội thất. Thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, châu Âu, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm 65% lực lượng lao động theo thống kê năm 2000. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, con số này đã giảm đáng kể, xuống còn 47,4% vào năm 2012 và 39,4% vào năm 2019. Gần 50% các hộ gia đình làm nông nghiệp ở nông thôn năm 2016 cho biết nguồn thu nhập chính của họ vẫn từ nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ này giảm từ 68% năm 2006. Chuyển đổi nông nghiệp đã góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, thông qua tăng thu nhập từ các hoạt động phi trồng trọt, đặc biệt ở các nhóm dân tộc thiểu số. Ngành nông nghiệp cũng là ngành chiếm tỷ lệ lớn trong sử dụng tài nguyên thiên nhiên, như đất, nước, rừng và các nguyên liệu thô khác, phần lớn đã được phân bổ lại cho phát triển công nghiệp và đô thị.
Trong giai đoạn COVID-19, ngành nông nghiệp nước ta vẫn giữ vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, đảm bảo lương thực, thực phẩm, an sinh xã hội. Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội làm ảnh hưởng đến hầu hết các ngành các lĩnh vực, trong đó có nông nghiệp. Trước những khó khăn đó, ngành nông nghiệp đã có nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả thể hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong lúc khó khăn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch. Điều đó thể hiện rõ nét nhất trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III/2021 ước tính giảm 6,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là khu vực duy nhất tăng trưởng dương với mức tăng 1,04%; trong khi đó khu vực công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%; khu vực dịch vụ giảm 9,28%. Mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển so với cùng kỳ năm trước: năng suất lúa tăng cao, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản đạt khá. Ngành nông nghiệp tăng 3,32%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,3%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 0,66%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp cũng đang đối mặt với thách thức lớn từ nội tại tới khách quan. Ba thách thức lớn là hội nhập toàn cầu, biến đổi khí hậu và quy mô sản xuất buộc nền nông nghiệp phải tái cơ cấu mạnh mẽ. Do đó, sẽ cần phải phát triển theo hướng nông nghiệp xanh, nông nghiệp sinh thái. Việt Nam cần chuyển từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang tư duy “kinh tế nông nghiệp”, chuyển từ theo đuổi giá trị gia tăng sang vừa tạo ra giá trị gia tăng, vừa giảm thiểu chi phí sản xuất, chi phí xã hội, chi phí môi trường... Việt Nam cần thúc đẩy nông nghiệp xanh, là nền nông nghiệp sản xuất áp dụng đồng bộ các quy trình, công nghệ sử dụng hợp lý, tiết kiệm vật tư đầu vào, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nông nghiệp xanh bảo đảm phát triển hài hòa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường. Đồng thời, chuyển từ “nền nông nghiệp sản lượng cao” sang “nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, trách nhiệm, bền vững”; chuyển từ “phát triển đơn ngành” sang mục tiêu “phát triển tích hợp liên ngành”, từ mục tiêu “đơn giá trị” sang mục tiêu “tích hợp đa giá trị”; từ đó hình thành hệ sinh thái kinh tế nông thôn, phát triển hạ tầng nông nghiệp, không chỉ phục vụ sản xuất mà phục vụ phát triển kinh tế nông thôn và du lịch nông nghiệp, nông thôn.
Trong khuôn khổ hội thảo, các diễn giả đã tham gia thảo luận về các vấn đề liên quan đến chính sách và thực trạng kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
Cụ thể, bài tham luận của TS. Lê Thị Kim Loan đến từ Khoa Kinh tế Nông nghiệp, Trường Kinh tế - Đại học Cần Thơ đã đưa ra đánh giá nguồn vốn sinh kế của hộ gia đình bị xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thông qua phương pháp trọng số Entropy. Trong những năm qua, tình hình hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL diễn biến khá phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là lưu lượng nước từ thượng nguồn sông Mekong đổ về hạ nguồn ít cộng với yếu tố thủy triều đưa nước biển đi sâu vào các kênh, mương nội đồng, lượng mưa giảm, nắng nóng kéo dài. Qua quan sát tại Trạm quan trắc Cà Mau cho thấy, lượng mưa ở ĐBSCL ít thường tập trung từ tháng 12 đến tháng 4. Năm 2018, lượng mưa trung bình của toàn vùng thấp nhất là 0,2 mm vào tháng 3, các tháng 2 và 4 có lượng mưa từ 10,1-11,2 mm; thấp hơn so với lượng mưa trung bình của cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, số giờ nắng của vùng khá cao, tập trung vào khoảng tháng 2-4, số giờ nắng trung bình từ 196,6 giờ đến 248,3 giờ/tháng. Điều này dẫn đến tình trạng bốc hơi nhanh và làm gia tăng độ mặn. Những tác động của con người cũng góp phần không nhỏ gây ra XNM như khai thác và sử dụng nước ngầm quá mức, thay đổi mục đích sử dụng đất.
Trước tình trạng hạn mặn ngày càng nghiêm trọng, người dân ở ĐBSCL đã có những thay đổi trong chiến lược sinh kế để bảo đảm ổn định cuộc sống. Cư dân vùng hạn mặn vẫn duy trì mô hình sinh kế cũ nhưng cách thức hoạt động của mô hình có thay đổi. Một số ít hộ gia đình có sinh kế canh tác nông nghiệp chuyển sang phi nông nghiệp hoặc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản; trong khi đó cư dân có sinh kế trong hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản không chuyển sang canh tác nông nghiệp mà chuyển sang sinh kế phi nông nghiệp. Thực tế cho thấy người dân chưa mạnh dạn chuyển đổi sinh kế, nếu có chuyển đổi thì chỉ thay đổi cách thức sản xuất. Vì vậy, để giúp cho người dân vùng hạn có chuyển đổi sinh kế nhằm bảo đảm tính bền vững, nghiên cứu gợi mở một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, cải thiện môi trường dễ bị tổn thương. Tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đã làm đảo lộn sinh kế của người dân ở vùng ĐBSCL. Hiện nay, đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm. Điều này đã làm gia tăng tính dễ bị tổn thương cho sinh kế của cư dân. Vì thế, cải thiện môi trường là rất cần thiết. Để làm được điều này, trước hết là cần tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng chống hạn mặn; tiếp đến là nâng cao chất lượng công tác dự báo và tập huấn kiến thức về sản xuất và kinh nghiệm ứng phó với hạn mặn.
Thứ hai, cải thiện hoạt động sinh kế bằng việc đa dạng hóa sinh kế; tư vấn, hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm tại chỗ cho bà con nông dân; đảm bảo cơ chế chính sách trong xây dựng sinh kế bền vững cho cư dân thông qua việc thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi, hỗ trợ tư liệu sản xuất; đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với xây dựng nông thôn mới; phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý thực thi các chính sách giữa các đơn vị có liên quan.
Thứ ba, cải thiện các nguồn lực sinh kế. Các nguồn lực sinh kế có ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược sinh kế của cư dân vùng hạn mặn. Để làm được điều này, cần chú trọng nâng cao chất lượng nhân lực ở địa phương; đầu tư phương tiện sản xuất hiện đại, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường...
Tiếp đó, bài tham luận của TS. Vũ Xuân Nam về ứng dụng công nghệ Blockchain trong truy xuất nguồn gốc chè Thái Nguyên đưa ra nghiên cứu áp dụng chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, sản phẩm chè Thái Nguyên được thị trường ưa chuộng và có sức cạnh tranh cao. Nhiều sản phẩm đã được cấp quyền sở hữu trí tuệ, tuy nhiên, trên thực thế việc bảo hộ thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm chè vẫn chưa được đảm bảo. Trên thị trường còn nhiều sản phẩm chè không rõ nguồn gốc, xuất xứ vẫn được gắn nhãn “Trà Thái Nguyên”, “Tân Cương” làm ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng và niềm tin của người tiêu dùng. Trong thời đại công nghệ phát triển vượt bậc như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ 4.0 để truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm chè là vô cùng cần thiết. Để đảm bảo thương hiệu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu và mở rộng thị trường, nhất là các thị trường khó tính như châu Âu, châu Mỹ..., tiêu chuẩn về truy xuất nguồn gốc hàng hóa là một tiêu chí rất quan trọng, góp phần tạo nên uy tín của sản phẩm.
Đã có nhiều giải pháp giúp người tiêu dùng nhận biết được sản phẩm hàng hóa, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin vào truy xuất nguồn gốc sản phẩm là một công cụ rất quan trọng để phân biệt hàng thật, hàng giả trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Giải pháp truy xuất nguồn gốc điện tử thông qua mã QR (Quick Response - Mã phản hồi nhanh) sẽ giúp người tiêu dùng yên tâm về sản phẩm khi mua, nâng cao độ tin cậy của người tiêu dùng với sản phẩm, góp phần nâng cao giá trị của thương hiệu hàng hóa. Hiện nay, ứng dụng công nghệ Blockchain trong truy xuất nguồn gốc nông sản đang được rất nhiều đối tượng quan tâm; đặc biệt ứng dụng công nghệ này đang được áp dụng cho nông sản xoài và thanh long ở nước ta. Sản phẩm chè Thái Nguyên nên nghiên cứu và áp dụng công nghệ này để truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Từ các thực tiễn hiện nay, tham luận đưa ra một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, việc ứng dụng công nghệ Blockchain nhằm truy xuất nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, sản phẩm vẫn chưa được áp dụng nhiều ở Việt Nam. Chính vì vậy, để ứng dụng rộng rãi công nghệ này, thời gian tới, cần có được khung pháp lý và môi trường thể chế thuận lợi cho Blockchain phát triển. Trước tiên, cần xác định đây là mục tiêu dài hạn, đòi hỏi sự đầu tư nghiêm túc trong dài hạn của Nhà nước. Hành lang pháp lý quy định về tự động hoá, số hóa các quy trình thủ tục liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo là, xây dựng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về cả hoạt động, quy trình cũng như tài chính (chính sách cắt giảm thuế, hỗ trợ vốn vay)… đối với một nhóm các doanh nghiệp tiên phong, từ đó tạo thành một môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp khác cũng như các chủ thể khác của nền kinh tế tận dụng đà tăng tốc phát triển.
Thứ hai, các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước cần tiên phong trong ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ bao gồm cả công nghệ Blockchain để nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành, cung ứng dịch vụ công, đi đầu trong xây dựng môi trường sinh thái Blockchain. Sau khi đã tạo ra được môi trường của một “hệ sinh thái Blockchain”, thì việc kết nối các bên hữu quan, cũng như phát triển thành một hệ sinh thái hoàn thiện sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn.
Thứ ba, cần duy trì cơ chế trao đổi, phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp, cộng đồng cung ứng dịch vụ công nghệ cả ở trong nước và quốc tế để phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc, khó khăn trong quá trình triển khai hệ thống. Đồng thời, cần nâng cao năng lực sử dụng hệ thống bằng các hoạt động truyền thông, phổ biến, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao hiểu biết, nhận thức của người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước về việc ứng dụng công nghệ Blockchain.
Ngoài ra, các diễn giả tại Hội thảo còn trao đổi về các vấn đề:
- Đánh giá thực trạng, các tồn tại hạn chế và tiềm năng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh kinh tế 4.0 và nền kinh tế phục hồi sau đại dịch COVID-19.
- Các vấn đề về đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học – công nghệ, công nghệ mới và chuyển đổi số, kinh tế số trong nông nghiệp.
- Các vấn đề về kinh tế tuần hoàn trong kinh tế nông nghiệp.
- Đánh giá các chính sách hiện hành về kinh tế nông nghiệp; cung cấp các luận cứ khoa học giúp hoàn thiện chính sách về kinh tế nông nghiệp.
- Đưa ra các giải pháp hướng tới mục tiêu thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
- Các vấn đề kinh tế liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Hội thảo là diễn đàn cho các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý thảo luận, đưa ra các kết quả nghiên cứu khoa học giúp đánh giá thực trạng, các tồn tại hạn chế và tiềm năng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam, từ đó cung cấp các luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện chính sách về kinh tế nông nghiệp cũng như đưa ra các giải pháp hướng tới mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam.